Phồng động mạch chủ bụng là gì? Các công bố khoa học về Phồng động mạch chủ bụng

Phồng động mạch chủ bụng là tình trạng mạch chủ bụng bị co lên hoặc giãn ra đột ngột gây hiện tượng mạch nhấp nhô. Tình trạng này thường xảy ra do tắc nghẽn mạc...

Phồng động mạch chủ bụng là tình trạng mạch chủ bụng bị co lên hoặc giãn ra đột ngột gây hiện tượng mạch nhấp nhô. Tình trạng này thường xảy ra do tắc nghẽn mạch chủ bụng hoặc tăng áp lực trong hệ thống mạch chủ bụng. Các nguyên nhân gây phồng động mạch chủ bụng có thể là do bệnh tắc nghẽn mạch, như bệnh động mạch huyết quản, viêm tắc mạch, hoặc do tác động từ bên ngoài, như xơ cứng động mạch. Hiện tượng này có thể gây ra triệu chứng như đau bụng, trầm trọng hơn có thể gây chảy máu nội mạc hoặc nẻ mạch chủ bụng. Trường hợp phồng động mạch chủ bụng nếu không được điều trị kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Phồng động mạch chủ bụng, còn được gọi là aneurysm mạch chủ bụng, là một tình trạng khi chỉnh hình hoặc xung đột trong mạch chủ bụng gây ra sự mở rộng hoặc phồng lên của mạch chủ. Mạch chủ bụng là một trong những mạch quan trọng nhất trong cơ thể con người, cung cấp máu đến vùng bụng và các cơ quan nội tạng như dạ dày, gan, và ruột non.

Nguyên nhân chính gây ra phồng động mạch chủ bụng là do tác động lên thành mạch chủ bụng. Các nguyên nhân có thể bao gồm:

1. Xơ cứng động mạch: Lớp mạch bên trong mạch chủ bụng trở nên xơ cứng và dày hơn, từ đó giảm khả năng co giãn và tăng áp suất trong mạch chủ bụng.

2. Tắc nghẽn mạch: Mạch chủ bụng có thể bị tắc nghẽn bởi các khối máu, mảo vệ mạch, hoặc kết hợp của cả hai.

3. Yếu tố di truyền: Có một yếu tố di truyền liên quan đến phồng động mạch chủ bụng. Nếu có người trong gia đình bị mắc bệnh này, rủi ro bị bệnh sẽ cao hơn.

4. Bệnh viêm: Các bệnh viêm như viêm động mạch, viêm mạc mạch feeding feeding và viêm vùng quá trình kéo dài có thể gây tổn thương đến mạch chủ bụng và dẫn đến phồng động.

Nguy hiểm của phồng động mạch chủ bụng là khi khiến mạch chủ bụng bị vỡ hoặc nẻ, gây ra chảy máu nội mạch hoặc chảy máu gây tổn thương đến các cơ quan nội tạng và có thể gây tử vong. Triệu chứng của phồng động mạch chủ bụng bao gồm đau bụng, sự nhức nhối, nhịp đập đau trong bụng, và có thể có sự nhồi máu nội mạch.

Để chẩn đoán phồng động mạch chủ bụng, các phương pháp hình ảnh như siêu âm mạch, chụp CT hoặc cộng hưởng từ (MRI) có thể được sử dụng. Đối với các trường hợp phồng động nhỏ và không gây triệu chứng, theo dõi chặt chẽ có thể được thực hiện. Tuy nhiên, trong các trường hợp lớn hơn hoặc gây nguy hiểm, tiến trình phẫu thuật hoặc thuốc làm giảm áp suất trong mạch chủ bụng có thể được áp dụng để giảm nguy cơ tổn thương và phồng động.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phồng động mạch chủ bụng":

KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ PHỒNG ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG DƯỚI THẬN BẰNG PHẪU THUẬT CÓ KẾ HOẠCH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC GIAI ĐOẠN 2018 - 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật kinh điển điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận ở các bệnh nhân mổ có kế hoạch giai đoạn 2018-2020 tại trung tâm tim mạch và lồng ngực - bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác định phồng động mạch chủ bụng dưới thận có hoặc không phồng động mạch chậu kèm theo đã được điều trị bằng phẫu thuật có kế hoạch tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ 01/2018 đến 12/2020. Kết quả: Có tổng số 62 bệnh nhân được phẫu thuật, nam giới chiếm 72,6% (45), tuổi trung bình 67,1 ± 1,27 tuổi (36– 82). Có 45 (72,6%) bệnh nhân sờ thấy khối đập theo nhịp mạch ở bụng. Cao huyết áp gặp ở 45(72,6%) bệnh nhân. Phồng hình thoi chiếm 95,2%, kích thước khối phồng trung bình 53,2 ± 1,35 mm (28-110). Có 56 (90,3%) bệnh nhân được thay đoạn động mạch chủ chậu bằng mạch nhân tạo chữ Y, 6 (9,7%) được thay đoạn động mạch chủ bụng đơn thuần. Thời gian phẫu thuật trung bình 204,9 ± 46,2 phút (120 - 360). Không có bệnh nhân tử vong sớm sau mổ. Có 4 (6,5%) bệnh nhân phải mổ lại: 3(4,8%) do tụ máu sau phúc mạc, 1(1,6%) do hoại tử đai tràng. Kết luận: Phẫu thuật phồng động mạch chủ bụng dưới thận có kế hoạch tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn 2018-2020 là phẫu thuật an toàn với tỉ lệ tai biến, biến chứng thấp, không có bệnh nhân tử vong sau mổ.
#Phồng động mạch chủ bụng #bệnh viện Việt Đức #phồng động mạch chủ chậu
PHƯƠNG PHÁP HYBRID ĐIỀU TRỊ PHỒNG ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC BỤNG VÀ PHỒNG ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG TRÊN THẬN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Phẫu thuật điều trị phồng động mạch chủ trên thận và phồng động mạch chủ ngực bụng là phẫu thuật phức tạp, nguy cơ biến chứng cao1,2. Phương pháp hybrid, dựa trên sự phối hợp giữa phẫu thuật và can thiệp nội mạch bằng ống ghép nội mạch (stent graft) ra đời và được kỳ vọng là một phương án thay thế cho phẫu thuật và can thiệp nội mạch đơn thuần3. Tuy nhiên, các kết quả thực tế có được khá thay đổi3. Kỹ thuật này do đó chủ yếu được áp dụng đối với những trường hợp có nguy cơ phẫu thuật cao. Chúng tôi phân tích 2 trường hợp lâm sàng áp dụng phương pháp hybrid tại Bệnh viện Việt Đức tháng 6 năm 2021 đồng thời nhìn nhận lại một số đặc điểm về phương pháp này.
#phồng động mạch chủ trên thận #phồng động mạch chủ ngực bụng
Tổng quan về nhiễm khuẩn vết mổ và kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật mạch máu
Đặt vấn đề: Phẫu thuật mạch máu là loại phẫu thuật tương đối phức tạp và đa dạng, với nhiều biến chứng như nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm khuẩn mảnh ghép, viêm phổi, nhồi máu cơ tim, xuất huyết, thuyên tắc mạch/huyết khối… trong đó, thường gặp là nhiễm khuẩn vết mổ và nhiễm khuẩn mảnh ghép. Hiện nay, kháng sinh dự phòng là biện pháp hiệu quả nhất để kiểm soát tình trạng này. Phương pháp: Tổng hợp từ các nghiên cứu và hướng dẫn điều trị được tìm kiếm trên PubMed, GoogleScholar, Google. Kết quả: 112 trong số 1227 kết quả được lựa chọn và đưa vào bài tổng quan, trong đó bao gồm 90 nghiên cứu và 22 hướng dẫn điều trị. Kết luận: Trong phẫu thuật mạch máu, các hướng dẫn đa số khuyến cáo sử dụng kháng sinh dự phòng (KSDP) cho phẫu thuật động mạch chủ bụng và chi dưới, các phẫu thuật ghép vật liệu nhân tạo hoặc đặt stent. Phác đồ kháng sinh thường được lựa chọn là cephalosporin thế hệ 1 – C1G (cefazolin) hoặc cephalosporin thế hệ 2 – C2G (cefuroxim), dùng trong vòng 60 phút trước khi rạch da và ngừng sử dụng trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật.
#kháng sinh dự phòng #nhiễm khuẩn vết mổ #nhiễm khuẩn mảnh ghép #yếu tố nguy cơ #phẫu thuật mạch máu #phẫu thuật động mạch chủ bụng #phẫu thuật động mạch chi dưới #phẫu thuật mạch máu dùng vật liệu nhân tạo
Kết quả điều trị phẫu thuật vỡ phồng động mạch chủ bụng dưới thận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Đặt vấn đề: Phồng động mạch chủ bụng vỡ là biến chứng hay gặp nhưng cũng nặng nề nhất với tỉ lệ tử vong rất cao của nhóm bệnh lý phồng động mạch chủ, tuy nhiên chưa có nghiên cứu chuyên sâu với số lượng lớn nào được thực hiện ở Việt Nam về nhóm bệnh lý này. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác định phồng động mạch chủ bụng dưới thận vỡ, đã được điều trị bằng phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, từ 01/2015 đến 05/2021. Kết quả: Có tổng số 60 bệnh nhân được phẫu thuật, tuổi trung bình 67,5 ± 11,12 tuổi; thời gian từ lúc bắt đầu xuất hiện triệu chứng đến lúc được nhập viện 13,3 ± 11,72 giờ; 95% bệnh nhân có đau bụng, 90% khám thấy khối phồng. Phồng hình thoi chiếm 90%, kích thước trung bình 66,8 ± 16,13 mm. Có 86,7% bệnh nhân được thay đoạn mạch nhân tạo chữ Y với thời gian phẫu thuật trung bình 219,3 ± 60,49 phút. Tỉ lệ tử vong sớm 13,3%, tổng tỉ lệ tử vong 28,3%. Kết luận: cần theo dõi và điều trị sớm đối với những trường hợp phát hiện phồng động mạch chủ bụng nhằm hạn chế các biến chứng với tỉ lệ tử vong cao.
#Phồng động mạch chủ bụng #vỡ #bệnh viện Việt Đức
Nhân một trường hợp thiếu máu đại tràng sau thay đoạn động mạch chủ bụng - kết quả và nhìn lại y văn
Tổng quan: Thiếu máu đại tràng là một biến chứng ít gặp nhưng rất nguy hiểm trong phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ bụng. Các yếu tố nguy cơ biến chứng gồm có: tuổi cao, suy thận trước mổ, phồng động mạch chủ bụng vỡ, thời gian mổ kéo dài, không tái lập tuần hoàn động mạch chậu trong. Chẩn đoán sớm bằng soi đại tràng. Điều trị bằng phẫu thuật cắt đoạn đại tràng nếu còn chỉ định với tiên lượng nặng. Tỷ lệ tử vong cao do viêm phúc mạc và sốc nhiễm trùng. Can thiệp nội động mạch chủ bằng stentgraft có tỉ lệ gặp biến chứng này thấp hơn. Phương pháp nghiên cứu: dựa trên một ca lâm sàng tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và nhìn lại y văn, báo cáo nhằm mô tả các yếu tố nguy cơ, các phương pháp chẩn đoán sớm và giải pháp điều trị đối với loại biến chứng nặng nề này. Trường hợp lâm sàng: Bệnh nhân nam - 81 tuổi, tiền sử tăng huyết áp và nhiều yếu tố nguy cơ khác, được phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ bụng – chậu do phồng động mạch, dấu hiệu biến chứng hoại tử đại tràng trái xuất hiện rõ vào ngày thứ 4 sau phẫu thuật, được điều trị thành công bằng phẫu thuật cắt đoạn đại tràng cấp cứu. Kết luận: Các yếu tố nguy cơ thiếu máu đại tràng sau phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ bụng rất đa dạng. Chẩn đoán sớm khó khăn, tốt nhất bằng soi đại tràng. Phẫu thuật cắt đoạn đại tràng nếu còn chỉ định với tiên lượng nặng, tỉ lệ tử vong cao. Can thiệp nội mạch có thể làm giảm tỉ lệ biến chứng.
#thiếu máu đại tràng #phồng động mạch chủ bụng #thay đoạn.
Phẫu thuật lại trên bệnh nhân đặt stent graft động mạch chủ bụng: báo cáo 2 ca lâm sàng
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 151 Số 3 - Trang 34-41 - 2022
Đặt stent graft ngày càng trở thành một biện pháp an toàn và hiệu quả để điều trị các bệnh lý của động mạch chủ bụng dưới thận, đặc biệt là ở nhóm người bệnh có nguy cơ cao. Tuy nhiên vẫn có những biến chứng ít gặp cần can thiệp ngoại khoa sau đó. Chúng tôi báo cáo hai trường hợp gặp biến chứng cần phẫu thuật xử lý stent graft tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội bao gồm một trường hợp tắc nhánh stent graft và một trường hợp nhiễm trùng stent graft, và nhìn lại y văn về các chỉ định của can thiệp ngoại khoa sau đặt stent graft động mạch chủ bụng.
#Phồng động mạch chủ bụng #nhiễm trùng stent graft #tắc stent graft #EVAR
Tổng số: 6   
  • 1